Omega-6 không có tính gây viêm
Trong những năm gần đây, bài trừ các các nguồn thực phẩm giàu Omega-6 là một trào lưu thịnh hành, nhưng giống với nhiều trào lưu khác, xuất phát từ những suy diễn lệch lạc dựa trên cơ chế/lý thuyết.
Omega-6 (O-6) là một loại acid béo không bão hòa đa (polyunsaturated fatty acid hay PUFA), thường được cổ súy là có tính gây viêm, đối lập với một loại PUFA khác là Omega-3 (O-3).
Cả hai loại acid béo này đều sử dụng chung con đường chuyển hóa, ví dụ tương tác với các enzyme có chức năng elongation và desaturation (hai quá trình dẫn đến sản sinh PUFA trong cơ thể, rất quan trọng cho xây dựng Màng phospholipid của tế bào và tiền chất của các hợp chất truyền tin). Điều này dẫn đến lo ngại rằng, tiêu thụ nhiều O-6 sẽ lấn át O-3, tạo ra màng lipid của tế bào chứa nhiều tác nhân gây Viêm hơn, điển hình là Arachidonic Acid (AA), tạo tiền đề cho những luận điểm cho rằng, để bảo vệ sức khỏe cần tránh những nguồn thực phẩm giàu O-6 như các loại dầu từ hạt (seed oil) hay một số loại hạt.
Suy diễn tối giãn dựa trên cơ chế/lý thuyết
Đúng là O-6 có "tiềm năng" kích ứng viêm, tuy nhiên, cách hiểu thông dụng về cơ chế hoạt động của O-6 ở người hiện quá tối giản.
Thứ nhất: TẤT CẢ mọi PUFA đều dễ bị Oxy hóa (do kết cấu mạch 'hở', dễ tạo ra phản ứng hóa học), theo đó có thể kích hoạt 'áp lực oxy hóa' và Viêm. Tuy nhiên, trong khi O-6 ở trạng thái cô lập dễ bị oxy hóa, các acid béo này trong cơ thể thường tồn tại dưới dạng esther, ví dụ Triglyceride (dạng tích trữ của acid béo trong tế bào mỡ), vốn khó bị oxy hóa.
Khi được tiêu hóa và hấp thụ bởi cơ thể, Linoleic Acid (LA, một acid béo O-6 phổ biến) trải qua con đường chuyển hóa truyền thống của chất béo: hấp thụ ở ruột non, bị esterified thành Triacylglycerol hoặc Phospholipid/Cholesteryl ester ⇒ thu vớt bởi Chylomicron để vào lưu thông.
Khi thâm nhập TB: LA được sử dụng vào 2 việc: tích hợp vào màng TB, hoặc sử dụng trong hoạt động chuyển hóa ⇒ năng lượng
Trong lưu thông, chủ yếu tồn tại trong huyết tương (plasma, 30%) - vận chuyển bởi HDL (35%) và LDL (30%); và bởi platelet và hồng cầu (9.3% và 9.7%)
Dưới góc độ tích hợp vào lipid huyết tương (plasma lipid), chủ yếu dưới dạng Cholesteryl Ester (50%), Phospholipid (40%) và Triglycerides (10%)
Thứ hai, Linoleic Acid (LA) có thể bị chuyển hóa thành Arachidonic acid (AA), vốn có thể bị chuyển hóa thành các eicosanoid gây Viêm. Tuy nhiên,
Tuy nhiên, đây là quan điểm quá tối giản ở người. Các tế bào khác nhau trong cơ thể có hoạt động chuyển hóa LA ⇒ AA khác nhau, với tỉ lệ khác nhau; trong nhiều TB, LA/AA đóng vai trò quan trọng với chức năng sinh lý tại đó. Hoạt động chuyển hóa O-6 cũng chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như lối sống, chế độ ăn, thuốc kê đơn.
Tổng thể bằng chứng dịch tễ học và thí nghiệm có kiểm soát cho thấy, LA/O-6 không những không có liên hệ với tăng các chỉ số Viêm/áp lực Oxy hóa, mà còn có liên hệ với sự sụt giảm các dấu hiệu Viêm.
Về cơ chế, đúng là AA có gốc từ LA/O-6 sản sinh các hợp chất gây Viêm, tuy nhiên, tổng thể bằng chứng thu thập trên người không ủng hộ luận điểm này. Các lí do tiềm tàng bao gồm:
tỉ lệ chuyển hóa từ LA → AA thấp;
AA sản sinh nhiều loại Eicosanoid, một số có tính gây Viêm trong khi một số khác có tính kháng Viêm. Một ví dụ là quá trình chữa lành vết thương, LA đóng vai trò trong cả giai đoạn Viêm và giai đoạn sửa chữa mô.
Không có hại, mà còn nhiều lợi ích
O-6 được chứng minh có ảnh hưởng tích cực tới sức khỏe tim mạch, và đóng vai trò thiết yếu tới sự phát triển khỏe mạnh của thai nhi và trẻ sơ sinh.
Giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch
Lượng PUFA trong chế độ ăn có liên hệ với giảm CVD risk, khả năng cao là do giảm tiêu thụ SFA. O-3 vẫn là loại PUFA được nghiên cứu nhiều nhất, một phần do có Hoạt tính sinh học cao ở liều lượng thấp + tăng lượng tiêu thụ dẫn đến mức tăng tuyến tính nồng độ trong cơ thể → dễ điều chỉnh. O-6 khó điều tra hơn bởi chúng xuất hiện phổ biến trong chế độ ăn. Có nhiều thí nghiệm cơ chế về O-3, nhưng khá ít cho O-6.
Các nghiên cứu dịch tễ học: lượng tiêu thụ LA có liên hệ với giảm LDL, vd: thay 5% lượng Fat tiêu thụ = O-6 ⇒ giảm 10% LDL-C. Nồng độ LA trong cơ thể tỉ lệ nghịch với nguy cơ mắc Tiểu đường loại 2.
Thí nghiệm có kiểm soát: Chế độ ăn giàu O-6 → giảm Mỡ Gan + cải thiện tình trạng chuyển hóa, không có dấu hiệu Viêm, so với một chế độ ăn giàu SFA, ở những đối tượng béo phì vùng bụng, có sức khỏe tim mạch suy giảm.
Tác động lên Mỡ máu và Huyết Áp
Lượng tiêu thụ O-6 có thể ảnh hưởng tích cực (giảm) đến LDL Cholesterol, minh chứng bởi các meta-analysis và systematic review,
LA/O-6 không có ảnh hưởng đáng kể lên Huyết áp. Điều tra về ảnh hưởng của O-6 lên Huyết áp khá khó bởi sự xuất hiện phổ biến của O-6, và rất khó để cô lập hiệu ứng của việc thay đổi lượng O-6 tiêu thụ (mà không làm thay đổi các yếu tố khác trong chế độ ăn).
Vai trò của O-6 với sức khỏe thai nhi
Một số quan điểm cho rằng, O-6 có tính gây Viêm nên phụ nữ đang mang thai cần tránh tiêu thụ O-6/LA.
Tuy nhiên, O-6 vẫn là một acid béo thiết yếu (VD: tiền chất của AA - đóng vai trò thiết yếu tới sự phát triển thần kinh của thai nhi ), và trong thời kì mang thai, cả số lượng lẫn chất lượng acid béo thiết yếu có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của thai nhi và trẻ sơ sinh (vd: hình thành, chức năng mô, nội tạng trước và sau sinh).
Sau khi sinh, trẻ sơ sinh được cung cấp PUFA từ sữa mẹ, với LA chiếm 25% tổng lipid huyết thanh.
Khuyến cáo của châu Âu về lượng LA trong sữa công thức nằm trong khoảng 500 - 1200mg/100kcal.
Tỉ lệ Omega-3/Omega-6 tối ưu có tồn tại?
“Tỉ lệ O-3:O-6 tối ưu” là một chủ đề được tranh luận sôi nổi, một lí do là bởi lo ngại rằng sự tiêu thụ O-6 phổ biến trong các loại thực phẩm (vd: sử dụng dầu từ các loại hạt trong thực phẩm đã qua chế biến) sẽ lấn át lượng O-3 trong màng tế bào.
Tuy nhiên, không có bằng chứng khoa học nào ủng hộ khái niệm hay một tỉ lệ cụ thể; đa số giới chuyên môn về mỡ máu cũng hoài nghi về tính ứng dụng của khái niệm này, bởi nó không phản ánh tổng nhu cầu O-3 và O-6 của cơ thể. Cơ thể có thể bị thiếu hụt các acid béo thiết yếu trong khi vẫn giữ tỉ lệ O-3:O-6 ở một mức được cho là tối ưu.
Khuyến cáo hiệu tại về lượng chất béo trong chế độ ăn: 30-35% tổng Calo, trong đó: < 10% từ SFA, và 5-10% từ PUFA; MUFA thường không được bao gồm bởi ảnh hưởng trung tính - tích cực lên sức khỏe.
lượng O-6/LA được khuyến cáo chiếm 2-5% tổng Calo; với lượng cao hơn (8-10%) để kiểm soát LDL-6.
Không tổ chức quốc tế nào đưa ra khuyến cáo về tỉ lệ O-3:O-6.

KẾT LUẬN
Đoạn trích sau lấy từ một bài viết thảo luận cụ thể về thực hư hiệu ứng sức khỏe của các loại dầu hạt (vốn chứa nhiều acid béo Omega-6) trong Tập San Tháng 06/2023 tỏ ra phù hợp nhất để tổng kết về chủ đề này.
Nếu bạn tiêu thụ nhiều nội dung liên quan đến dinh dưỡng trên mạng xã hội, bạn có thể đã bắt gặp một số luận điểm rùng rợn, nghe có vẻ khoa học về các loại dầu Hạt gây ra ăn uống dư thừa, béo phì và suy giảm sức khỏe tim mạch chuyển hóa như thế nào. Trong khi một cá nhân có thể dựng nên một câu chuyện khá thuyết phục về những cơ chế khiến các loại dầu Hạt đáng ra rất độc hại cho sức khỏe con người, chúng ta nên đối chứng với dữ kiện thực tế trên người để xem liệu các loại dầu hạt có thực sự có hại hay không, trước khi mất ăn mất ngủ về điều này.
May mắn thay, có rất nhiều bằng chứng để chúng ta dựa vào, và những luận điểm hù dọa về dầu Hạt có thể coi là vô nghĩa. Ở các nghiên cứu tốt nhất thực hiện trên người cho đến thời điểm hiện tại, các loại dầu Hạt, Linoleic acid và Omega 6 được ghi nhận chắc chắn có ảnh hưởng trung tính - đến - tích cực đến vị giác, hình thể, và sức khỏe tim mạch - chuyển hóa. Bạn không cần phải cố gắng đi tìm và bổ sung thêm các loại dầu Hạt vào chế độ ăn hàng ngày (phần lớn chúng ta tiêu thụ khá nhiều Omega 6 mà không cần cố), nhưng cũng không phải cố gắng hạn chế hay tránh chúng.
Bài viết được biên tập lại từ nghiên cứu tổng quan mô tả bởi “Poli và đồng nghiệp” (2023).
Viêm (Inflammation) cũng là một chủ đề khác tồn tại nhiều suy diễn dựa trên những hiểu biết không đầy đủ về cơ chế, đã được thảo luận trước đó tại đây.