(PODCASTS/INSTAGRAM) HẠN CHẾ CƠ BẢN CỦA VIỆC SUY LUẬN TỪ CƠ CHẾ/TIỂU TIẾT
Chủ đề này có lẽ luôn xuất hiện thường trực khi thảo luận về những cơ sở khoa học của những khuyến cáo về fitness. Một số vấn đề liên quan đến chủ đề này được thảo luận trong tuần này
:
MASS Office Hour ep.8: vấn đề được nhắc đến liên quan đến Caffeine, cụ thể là một khuyến cáo đến từ giới biohacker cho rằng bạn nên chờ ít nhất 60 - 90 phút sau khi ngủ dậy trước khi tiêu thụ Caffeine, dựa trên tương tác Caffeine và Adenosine, để phòng tránh hiện tượng “sập nguồn” vào đầu giờ chiều (khá thú vị là một cách lí giải hiện tượng này đến từ góc độ ‘nhịp độ sinh học’, nhằm tránh hoạt động vào thời điểm ánh nắng/tia UV mạnh nhất trong ngày, mặc dù chỉ dựa trên những quan sát về thói quen sinh hoạt ở các khu vực địa lý/thời điểm trong năm khác nhau). Tuy nhiên, hiện chưa có bất cứ bằng chứng nào thực sự ghi nhận hiệu quả của khuyến cáo này, và cho đến khi nó được chứng minh là đúng, điều này vẫn chỉ là một phỏng đoán dựa trên cơ chế/lý thuyết (mechanistic speculation).
Quan hệ giữa tập luyện kháng lực và sức khỏe não bộ, được đề cấp bởi Mike Zourdos (một thành viên của nhóm MASS) trong podcast This One Life. Tập luyện Kháng lực có thể làm tăng hoạt động sản sinh BDNF (một loại protein/neurotrophin đóng vai trò quan trọng đối với khả năng ghi nhớ, trí tuệ và bảo vệ tế bào thần kinh) trong ngắn hạn sau buổi tập, và đây thường được sử dụng làm cơ sở cho những quan điểm cho rằng tập luyện Kháng lực tốt cho sức khỏe não bộ. Tuy nhiên điều này hoàn toàn là phỏng đoán, và hiện chưa có một bằng chứng đáng tin cậy nào cho thấy một sự cải thiện trong dài hạn một quan sát thú vị là ở trong trạng thái nghỉ, nồng độ BDNF trong lưu thông của những người có tập luyện lại thấp hơn so với những người không tập luyện). Điều này không có nghĩa là tập luyện kháng lực không có ích cho sức khỏe não bộ, mà là ví dụ khuyên mọi người tránh sa vào những mánh khóe như “chương trình tập luyện được thiết kế nhằm tăng BDNF tối đa”.
Hiệu quả của thiết kế chế độ ăn theo ‘gen’, được thảo luận bởi Gil Calvarho trong một video phân tích một nghiên cứu mới được công bố. Nghiên cứu này đánh giá hiệu quả giảm cân và cải thiện các chỉ số về đường huyết/chuyển hóa của chế độ ăn kiêng thiết kế theo ‘loại gen’ (phản ứng tốt với Carb/Carb Responder hoặc tốt hơn với Fat/Fat Responder). Những người tham gia được chia thành 4 nhóm, với những người tham gia được áp dụng các chế độ ăn cùng calo/Protein nhưng khác nhau ở tỉ lệ Carb/Fat, phù hợp hoặc không phù hợp với 'cơ địa' của họ. Kết quả cho thấy không có khác biệt gì về kết quả giảm cân và cải thiện về chuyển hóa sau 3 tháng. Ví dụ này cho thấy, hiện tại cơ sở khoa học chưa đủ vững chắc để việc xét nghiệm gen có hiệu quả đối với 'cá nhân hóa' chế độ ăn kiêng, và có thể coi là một ví dụ cho chúng ta biết điều gì đáng (và không đáng) tập trung nguồn lực và sự quan tâm. Ít nhất với giảm cân, điều đáng quan tâm hơn cả là khả năng tuân thủ (Adherence).
Autophagy (Đại thực bào) do Nhịn ăn (Fasting), thảo luận bởi Nicholas Verhoeven (Physionic) và Gil Calvarho. Nhịn ăn đang được ca tụng về những lọi ích cho sức khỏe mà nó mang lại, bởi nó được cho là một cách thúc đẩy hiệu quả (và nhiều quan điểm trên MXH cho rằng là duy nhất) hoạt động ‘đại thực bào’. Tuy nhiên, những suy luận từ Autophagy có không ít lỗ hổng. Autophagy là một hiện tượng thực chất mới được phát hiện khá gần đây, với giải Nobel trao cho người có công phát hiện ra hiện tượng này diễn ra vào năm 2016. Giống như một chủ đề khác không kém phần nóng hổi là ‘hệ vi sinh đường ruột’ (gut microbiome), hiện những hiểu biết chắc chắn hiện tại về hiện tượng này còn rất rất ít, ít hơn nhiều so với những gì được truyền bá trên mạng xã hội. Trong những gì ít ỏi mà chúng ta biết, autophagy không chỉ được kích hoạt khi nhịn ăn, mà cả tập luyện, trạng thái thâm hụt năng lượng. Mặt khác autophagy còn được ghi nhận xuất hiện cùng với những hiện tượng khác không hề có lợi cho sức khỏe như nhiễm khuẩn, hút thuốc lá, ung thư… được phỏng đoán là nhằm bảo vệ cơ thể khỏi tổn thương (bằng cách loại bỏ các protein hay thành phần của tế bào bị hư hại); riêng ở một số loại ung thư, autophagy có thể là một biểu hiện tiêu cực, góp phần vào duy trì và ‘cứu sống’ tế bào ung thư. Bên cạnh đó, các bằng chứng về ‘lợi ích’ của autophagy trên người còn rất rất hạn chế, và đại đa số những bằng chứng thường được viện dẫn hiện tại đến từ những thí nghiệm trên tế bào hoặc động vật, có tính ứng dụng rất hạn chế trên con người. Điểm chính ở đây là, cố gắng tập trung thúc đẩy tối đa ‘autophagy’ với những hiểu biết hạn hẹp hiện tại là một điều dại dột. Như Nic có đề cập, trong nhiều trường hợp, gắn bó với những khuyến cáo cơ bản, đơn giản về sức khỏe và thể chất sẽ có ích hơn là đâm đầu vào những ‘ngõ hẻm’ về sinh lý.
Hiện tượng Viêm và phát triển cơ bắp, thảo luận bởi Mike Israetel. Viêm thường bị coi là ‘xấu’, nhưng giống như hầu như mọi hoạt động sinh lý trong cơ thể, câu chuyện thường có tính đa chiều hơn. Có nhiều hơn một loại viêm, có thể chia thành (khoảng) 2 nhóm chính: viêm cục bộ (local) và viêm hệ thống (systemic). Viêm có thể ‘tốt’ vì nó là phản ứng cần thiết để khởi động quá trình sửa chữa, tái tạo và xây dựng trong cơ thể; mặt khác Viêm có thể không tốt khi nó diễn ra trong thời gian dài (mãn tính) và trên toàn cơ thể (hệ thống). Viêm hiếm khi là nguyên nhân, mà là hệ quả của những hiện tượng khác, như trạng thái thừa cân trong dài hạn, ít vận động, chế độ ăn thúc đẩy trạng thái thừa cân/béo phì, áp lực tinh thần và thể chất trong cuộc sống…
Nội dung liên quan: Tập San Tháng 03/2022 (về thuốc chống Viêm và phát triển cơ bắp)
Những ví dụ trên cho thấy rằng, hoạt động sinh lý của con người rất phức tạp, rất khó để quy kết một hiện tượng cho một cơ chế duy nhất. Vì vậy, việc suy luận dựa trên cơ chế/lý thuyết là một điều khá nguy hiểm; nhẹ thì bạn chỉ sai và và không có chuyện gì xảy ra, nặng thì có tiềm năng gây hại.
Vậy bằng chứng khoa học nên được hiểu và ứng dụng vào thực tế như thế nào? Chúng ta có thể tham khảo câu trả lời của Eric Trexler: “Khoa học có thể dẫn dắt ứng dụng thực tiễn nếu chúng ta có những bằng chứng chất lượng cao, có thể khái quát hóa cho những tình huống thực tế.” Một cách để xác định chất lượng của một nguồn dẫn chứng là dựa vào hệ thống thứ bậc bằng chứng khoa học (hierarchy of evidence), theo thứ tự tăng dần về độ tin cậy/chất lượng: ý kiến của chuyên gia -> nghiên cứu về cơ chế sinh lý (trên tế bào, động vật) -> nghiên cứu quan sát trên người -> các thí nghiệm có kiểm soát, đối chứng ngẫu nhiên (RCT) -> các nghiên cứu ‘phân tích tổng hợp’ (meta-analysis). Tất nhiên, đây mới chỉ là bước đầu tiên, và việc đánh giá chất lượng về nội dung và kết quả được ghi nhận trong một nghiên cứu là một việc đòi hỏi chuyên môn và một cái nhìn khách quan. Với một người tiêu thụ nội dung về fitness phổ thông, quan điểm của các chuyên gia đáng tin cậy trong ngành, có khả năng diễn giải rõ ràng và khách quan điều gì bằng chứng khoa học cho thấy (và không cho thấy) sẽ vô cùng có ích.
Cũng về chủ đề phân biệt độ tin cậy của quan điểm, Gil Calvarho có một video hướng dẫn khá dễ hiểu cách nhận diện đâu là những nội dung có tính ‘dắt mũi’ trên mạng xã hội, dựa trên những suy luận dựa trên lý thuyết/cơ chế (mechanistic speculation).và nhảy cóc về logic (logical leap). Phương pháp được hướng dẫn trong này chỉ hướng tới đánh giá sự chặt chẽ của một luận điểm từ cái nhìn đầu tiên, chứ đánh giá trực tiếp những bằng chứng được dẫn chứng, nhưng bù lại nó không đòi hỏi những hiểu biết chuyên sâu về cách đọc hiểu nghiên cứu khoa học.