THỰC HƯ VỀ TÍT “NHỊN ĂN GIÁN ĐOẠN LÀM TĂNG NGUY CƠ TỬ VONG DO BỆNH TIM MẠCH”
Thêm một ví dụ về sự ưu tiên thu hút tương tác thay vì truyền tải thông tin đầy đủ và thấu đáo của các kênh truyền thông và mạng xã hội
TLDR:
Câu chuyện xuất phát từ một bản Tóm tắt nghiên cứu, thay vì một nghiên cứu hoàn chỉnh. Vì lí do này, bạn đã có thể gạt ngay nó đi.
Chưa chắc nghiên cứu hoàn chỉnh (khi được công bố) đã cho biết thêm thông tin gì gây chấn động (hay hữu ích) so với những hiểu biết hiện tại về chủ đề này.
“Giới hạn khung giờ ăn”/”nhịn ăn gián đoạn” là một phương án khả thi đối với mục tiêu sức khỏe và thể chất. Tuy nhiên, hiệu quả của chúng không bao giờ tách rời với những yếu tố quan trọng hơn tạo nên một lối sống lành mạnh.
Đây là một tiêu đề tin thu hút nhiều sự chú ý gần đây được truyền tải bởi nhiều trang tin trên thế giới (ở Việt Nam nổi tiếng nhất là bởi nhà đài có chữ cái đầu tiên giống với 🦆), viện dẫn một “nghiên cứu mới” được công bố.
Sức hút đáng kể của tiêu đề trên là bởi, phương pháp “nhịn ăn gián đoạn” (intermittent fasting) - điển hình là mô hình 16:8 - là một phương pháp dinh dưỡng thịnh hành có hiệu quả giảm cân cũng như (được cho là) đem lại nhiều lợi ích khác đối với sức khỏe như kéo dài tuổi thọ (ít nhất là trên động vật🐁). Vậy, thực hư của tiêu đề cũng như “nghiên cứu” trên là ra sao? Bài viết này1 sẽ cố gắng cung cấp một cái nhìn chi tiết hơn về vấn đề này.
Tình tiết “câu chuyện”
Câu chuyện bắt đầu từ một bản tóm tắt nghiên cứu khoa học (Abstract) được công bố tại một hội thảo của Hiệp Hội Tim Mạch Hoa Kỳ (American Heart Association). Sự kiện này được đưa tin trên trang thông tin của AHA vào ngày 18/03 (link tại đây).
Ngay lập tức, thông tin trên được các trang thông tấn trên thế giới chia sẻ lại nhiệt tình. Tuân theo xu hướng chung, nhà đài tại Việt Nam cũng nối gót xu thế và chia sẻ thông tin này vào ngày 24/03
“Nghiên cứu” nói gì?
Bản Abstract của nghiên cứu được bao gồm trên bài viết đưa tin của AHA nhưng có bạn có thể xem ngay bên dưới 👇
Những thông tin chính của bản Tóm tắt trên có thể được tóm gọn như sau:
Nghiên cứu này sử dụng dữ kiện từ cuộc khảo sát NHANES (National Health And Nutrition Examination Survey, một cuộc khảo sát dài hạn về sức khỏe và thói quen dinh dưỡng tại Mĩ). Cụ thể, những dữ kiện này đến từ những người tham gia khảo sát trong giai đoạn 2003 - 2018 (tổng cộng 20,000 người).
Các nhà nghiên cứu phân chia những người tham gia theo khung giờ ăn mà họ tự báo cáo trong khảo sát thành các nhóm sau: < 8 tiếng, 8 - <10 tiếng, 10 - <12 tiếng, 12 - 16 tiếng (nhóm Đối chứng), và > 16 tiếng. Các kết quả được quan tâm bao gồm: nguy cơ tử vong vì mọi lí do (all cause mortality), nguy cơ tử vong vì bệnh tim mạch (CVD mortality), và nguy cơ tử vong vì ung thư (Cancer mortality).
Phát hiện chính của nghiên cứu (tâm điểm của sự chú ý) là, so với nhóm Đối chứng (khung giờ ăn 12 - 16 tiếng), những người có khung giờ ăn nhỏ hơn 8 tiếng (< 8 tiếng) có nguy cơ tử vong vì bệnh tim mạch cao hơn 91%, và lên đến 107% ở những người đã có vấn đề về tim mạch.
Vì sao những thông tin trên (không) đáng lo?
Con số 91% là chi tiết có lẽ thu hút sự chú ý nhất bởi nó thách thức ra mặt những hiểu biết - từ thận trọng nhất đến ngông cuồng nhất - về tác động của “giới hạn khung giờ ăn” đối với sức khỏe. Nói cách khác, việc “giới hạn khung giờ ăn”/IF có thể gây hại là điều không tưởng và khó tin.
Tuy nhiên, thực sự, những thông tin trên không thực sự đáng lo (hay đáng quan tâm) với những người quan tâm đến sức khỏe và/hoặc phương pháp này. Chúng ta có thể đi vào một số lí do dưới đây.
Chỉ là “bản xem trước”
Như đã được nhắc đến ở trên, cơ sở cho toàn bộ sự việc ở trên là một ”bản tóm tắt nghiên cứu” (Abstract). Đây không phải là một nghiên cứu hoàn chỉnh, đã trải qua công đoạn “bình duyệt” (peer-reviewed hay quá trình các nhà khoa học khác đọc, bình luận và đánh giá bản thảo nghiên cứu trước khi được xuất bản) và đã được xuất bản trên một tạp chí. Bản Abstract trên chỉ chứa đựng những thông tin chính mà các tác giả muốn truyền đạt, và không cung cấp đầy đủ nội dung về phương pháp nghiên cứu cũng như cách mà nhóm tác giả đi đến những phát hiện và kết luận được trình bày trong này.
Rất có thể nghiên cứu này khi được bình duyệt và xuất bản có thể sẽ rất khác so với những gì được trình bày trong bản tóm tắt trên. Do vậy, từ cái nhìn sơ lược, đây không phải là một cơ sở tin cậy để đưa ra bất cứ kết luận hay phản ứng nào.
Hạn chế của nghiên cứu
Kết luận suy luận từ bất cứ nghiên cứu khoa học nào cũng chịu ràng buộc bởi những hạn chế của nghiên cứu. Giả sử những thông tin trong bản Tóm tắt trên phản ánh sản phẩm cuối cùng, chúng ta cần cân nhắc những hạn chế tiềm tàng của nghiên cứu này có ảnh hưởng đến kết luận có thể rút ra.
“Tương quan” thay vì “nhân quả”
Nghiên cứu liên quan là một nghiên cứu “dịch tễ học” (epidemiology research), hay còn gọi là nghiên cứu “quan sát” (observational research). Kiểu nghiên cứu này được thực hiện bằng cách sử dụng dữ kiện về, ví dụ, một thói quen hay hành vi được quan tâm và phân tích xem liệu thói quen hay hành vi đó có liên quan đến kết quả được quan tâm hay không. Điều này trái ngược với các nghiên cứu có kiểm soát - như các nghiên cứu dạng “có kiểm soát bằng Đối chứng và chỉ định ngẫu nhiên” (randomized controlled trial hay RCT); nếu như các RCT sẽ cố gắng kiểm soát nhiều yếu tố nhất có thể nhằm cô lập ảnh hưởng của một số yếu tố được quan tâm (thói quen hay hành vi) đến kết quả được quan tâm, các nghiên cứu “quan sát” - như tên gọi - chỉ quan sát và chỉ ra liên kết giữa hành vi và kết quả dựa trên tần suất xảy ra của chúng. Nói cách khác, các nghiên cứu “quan sát” sẽ có hiệu quả nhất trong việc thiết lập quan hệ “tương quan” (correlation, hay hai sự việc A và B xuất hiện cùng nhau), thay vì tìm ra quan hệ “nhân quả” (causation hay sự việc A dẫn đến kết quả B) - vốn sẽ được xác định tốt hơn bởi các nghiên cứu dạng RCT.
Theo đó, giả sử kết quả được trình bày là chính xác, cách hiểu chính xác về phát hiện của nghiên cứu hiện tại là:
✅Xác suất mà một người tử vong vì bệnh tim mạch cũng đồng thời giới hạn khung giờ ăn trong 8 tiếng hoặc ít hơn cao hơn 91% so với giới hạn khung giờ ăn trong 12 - 16 tiếng (điều kiện được so sánh).
Nó không cho thấy rằng:
❌”Giới hạn khung giờ ăn” trong 8 tiếng hoặc ít hơn dẫn đến nguy cơ tử vong vì bệnh tim mạch cao hơn 91% so với giới hạn khung giờ ăn trong 12 - 16 tiếng.
Nói cách khác, phát hiện trên không cho biết lí do VÌ SAO hai hiện tượng này (“tử vong vì bệnh tim mạch” và “giới hạn khung giờ ăn < 8 tiếng”) xuất hiện cùng nhau. Tất nhiên, một nghiên cứu “quan sát” có thể cố gắng tìm ra điều này bằng cách điều chỉnh mô hình phân tích thống kê sau khi đã sàng lọc các yếu tố ‘gây nhiễu’ (confounder) tiềm tàng. Dựa vào bản Tóm tắt, có vẻ như các tác giả đã sàng lọc khá nhiều yếu tố trong phân tích của mình liên quan đến đặc điểm cá nhân, điều kiện kinh tế - xã hội - học vấn, thói quen hút thuốc, sử dụng rượu bia, chất lượng chế độ ăn, v.v. Tuy nhiên, thông tin được trình bày trong bản Tóm tắt rất hạn chế và chúng ta sẽ cần đợi đến khi bản đầy đủ của nghiên cứu được xuất bản để đánh giá chi tiết hơn cách nhóm tác giả sàng lọc những yếu tố này.
Hoài nghi liên quan đến dữ kiện
Bên cạnh hạn chế về phương pháp nghiên cứu, nghiên cứu này cũng có một số hạn chế liên quan đến mức độ chắc chắn của dữ kiện đáng chú ý.
Đầu tiên, nghiên cứu hiện tại phụ thuộc vào hồi tưởng về thói quen ăn uống trong 24 giờ trước đó của những người trả lời khảo sát. Điều này mở ra khả năng dữ kiện mắc sai sót do yếu tố con người, khi người trả lời khảo sát có thể nhớ nhầm, ước tính thiếu hoặc thừa. Tất nhiên đây chỉ là một hạn chế thường gặp trong nghiên cứu “quan sát” (và có thể coi là một lập luận khá lười biếng để phê bình một nghiên cứu).
Mặt khác, chưa chắc những người tham gia khảo sát đã “giới hạn khung giờ ăn” (vd: mô hình 16:8) - ít nhất như cách nó đang được áp dụng hiện tại - một cách chủ động hay có ý thức. Một chi tiết khá thú vị là, trào lưu “nhịn ăn gián đoạn” (IF) phổ biến (giới hạn khung giờ ăn trong 8 tiếng hay mô hình 16:8) chỉ thực sự nở rộ từ năm 2010 trở lại. Với dữ kiện được sử dụng bắt đầu từ năm 2003, một tình huống khả thi là việc “giới hạn khung giờ ăn” bởi những người tham gia không được thực hiện vì lí do khác với hiện tại (như giảm cân hay cải thiện sức khỏe), mà giống hơn với biểu hiện cho thói quen sinh hoạt của họ.
Dưới góc độ này, nghiên cứu hiện tại khó có thể coi là một nghiên cứu trực tiếp đánh giá phương pháp “giới hạn khung giờ ăn”/IF, mà chỉ đơn thuần đánh giá mối liên hệ giữa một đặc điểm trong thói quen ăn uống hàng ngày (ăn trong một khung giờ nhất định) và một kết quả liên quan đến sức khỏe. Điều này mở ra không ít khả năng có thể kết nối “giới hạn khung giờ ăn” và “tử vong vì bệnh tim mạch”, nhất là khi chúng ta liên hệ với các bằng chứng đã được công bố liên quan đến chủ đề này.
Những yếu tố có ảnh hưởng tiềm tàng
Dù có vẻ chấn động nhưng thực tế là, chúng ta có bằng chứng có thể hé lộ mối liên kết giữa áp dụng “giới hạn khung giờ ăn” và các dấu hiệu báo hiệu nguy cơ bệnh tật cao hơn (như bệnh tim mạch).
Một khía cạnh có thể được gợi ý từ những bằng chứng về “nhịn bữa sáng” (skipping breakfast). Cụ thể, mặc dù được cho thấy có thể có ích với giảm cân, “nhịn bữa sáng” đã được liên hệ với nguy cơ cao hơn với những kết quả như nguy cơ tử vong vì mọi lí do, mắc bệnh tim mạch hay tử vong về bệnh tim mạch, tiểu đường, béo phì (vốn có thể dẫn đến biến chứng tim mạch). Đáng chú ý, “nhịn bữa sáng” thường xuất hiện hơn ở những đối tượng có điều kiện kinh tế - xã hội kém, làm việc tăng ca hoặc ca đêm, gặp phải những vấn đề tâm lý như trầm cẩm. Những điều này mở ra khả năng rằng, áp lực (stress) trong cuộc sống cũng như về sức khỏe tâm lý có thể là một yếu tố không nhỏ ảnh hưởng đến phát hiện được ghi nhận; như đề cập ở trên, “giới hạn khung giờ ăn” lúc này sẽ giống với một biểu hiện, hệ quả của trạng thái căng thẳng kéo dài (vốn là một dấu hiệu đáng tin cậy báo hiệu nguy cơ mắc bệnh và tử vong vì bệnh tim mạch) hơn là nguyên nhân.

Mặt khác, “nhịn bữa sáng” không phải lúc nào cũng được phát hiện có liên hệ với nguy cơ bệnh tật cao hơn. Ảnh hưởng của “nhịn bữa sáng” tỏ ra chịu tác động bởi các dấu hiệu phản ánh sức khỏe như cấu trúc hình thể và tình trạng sức khỏe; một nghiên cứu ghi nhận mối liên hệ giữa “bỏ bữa sáng” và bệnh tim mạch giống như đề cập ở trên (cao hơn so với có ăn sáng), tuy nhiên khi sàng lọc các yếu tố về sức khỏe và hình thể, mối liên hệ này gần như biến mất (không còn đạt ngưỡng có ý nghĩa về thống kê). Điều này cho thấy khả năng rằng, “nhịn bữa sáng” kết hợp với một lối sống lành mạnh (phản ánh bởi thể trạng và sức khỏe tốt) không có ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe.
Nói cách khác, có thể hiểu là, bạn vẫn có thể sống khỏe mạnh nếu “nhịn bữa sáng” (hay “giới hạn khung giờ ăn”) nhưng duy trì những thói quen sinh hoạt lành mạnh liên quan đến ăn uống, vận động, ngủ nghỉ, v.v. Giống với “giới hạn khung giờ ăn”, nhịn bữa sáng cũng có thể được sử dụng như một công cụ để kiểm soát lượng Calo bạn tiêu thụ trong ngày, mặc dù có thể là một con dao hai lưỡi:
Nếu bạn bỏ bữa sáng hoặc giới hạn khung giờ ăn (vd: 8 tiếng) và KHI ĂN không tiêu thụ nhiều Calo hơn, hệ quả hoàn toàn tích cực (giảm Calo tiêu thụ); mặt khác
Nếu bạn bỏ bữa sáng hoặc giới hạn khung giờ ăn (vd: 8 tiếng) và KHI ĂN ăn tăng lên, dẫn đến tiêu thụ nhiều Calo hơn, hệ quả là tiêu cực (tăng Calo tiêu thụ, thặng dư năng lượng, theo thời gian dẫn đến tích mỡ thừa, v.v.).
Tóm lại, một điều chúng ta có thể rút ra từ phần này là, “giới hạn khung giờ ăn” lúc này sẽ giống với một biểu hiện cho một lối sống không lành mạnh - vốn bao gồm những dấu hiệu khác có liên hệ chặt chẽ hơn với bệnh tật và nguy cơ tử vong - thay vì nguyên nhân chính.
Bằng chứng đối lập
Một điều khác không thể phủ nhận là, các hình thức “giới hạn khung giờ ăn” hay “nhịn ăn gián đoạn” có một lượng bằng chứng ủng hộ khá lớn. “Giới hạn khung giờ ăn” đã được ghi nhận trong nhiều thí nghiệm “có kiểm soát, đối chứng và chỉ định ngẫu nhiên” (RCT) về hiệu quả giảm cân, cải thiện sức khỏe chuyển hóa - tim mạch và cải thiện những dấu hiệu liên quan đến bệnh tim mạch (mỡ máu, Cholesterol, v.v.). Liên quan đến chủ đề “nhịn bữa sáng” đề cập ở trên, “giới hạn khung giờ ăn” kết hợp với ăn sớm hơn trong ngày2 (tức tiêu thụ phần lớn năng lượng trong ngày vào ban ngày) được ghi nhận dẫn đến những hệ quả tích cực đối với kiểm soát đường huyết, sức khỏe chuyển hóa cũng như vị giác. Từ góc độ này, những kết quả được ghi nhận bởi những nghiên cứu “quan sát” (như nghiên cứu đang là tâm điểm hiện tại) tỏ ra khá là khó tin.
Thoạt nhìn có vẻ đối lập và mâu thuẫn, nhưng điều này không có nghĩa là một tệp bằng chứng là đúng và tệp kia là sai; thay vào đó, chúng là hai “mảnh ghép” trong một bức tranh lớn hơn. Mỗi dạng nghiên cứu đều có thế mạnh và hạn chế riêng, và chúng có vai trò cá biệt đối với nâng cao hiểu biết về một vấn đề.
Các nghiên cứu dạng RCT có thể kiểm soát chặt chẽ thói quen sinh hoạt của người tham gia để cô lập ảnh hưởng của “giới hạn khung giờ ăn”, nhưng sự kiểm soát này khó có thể duy trì được lâu dài (mỗi thí nghiệm chỉ thường kéo dài khoảng 12 tuần) và số lượng người tham gia thường không lớn (tăng khả năng kết quả chịu ảnh hưởng bởi yếu tố ngẫu nhiên).
Ngược lại, các nghiên cứu “quan sát” dù không có yếu tố kiểm soát chặt chẽ, nhưng có thể chỉ ra những xu hướng dài hạn dựa trên một lượng dữ kiện lớn hơn (nhiều người tham gia, thời gian theo dõi có thể lên đến hàng thập kỉ).
Trên thực tế, việc hai tệp bằng chứng tỏ ra bất tương đồng xảy ra khá phổ biến trong lĩnh vực nghiên cứu về dinh dưỡng, nhưng điều này có thể cho thấy rằng chúng ta chưa tìm ra “mắt xích” liên kết giữa những vấn đề liên quan, có thể đến từ một yếu tố khách quan có ảnh hưởng, hoặc cũng có thể đến từ phương pháp thực hiện nghiên cứu. Liên quan cải thiện sức khỏe và thể chất, sự bất tương đồng giữa kết quả ghi nhận được trong bối cảnh thí nghiệm (kiểm soát mọi yếu tố để cô lập hiệu ứng của biện pháp) và kết quả ghi nhận được trong những quan sát diện rộng (ghi nhận quan hệ tương quan giữa hành vi và kết quả) thường là dấu hiệu gợi ý ảnh hưởng tiềm tàng của của những yếu tố nằm ngoài phạm vi kiểm soát của phòng thí nghiệm - vốn có vô vàn trong bối cảnh sinh hoạt thường nhật3.
Với sự không rõ ràng hiện tại, rất có thể mối liên hệ giữa “giới hạn khung giờ ăn” hay “nhịn ăn gián đoạn” với bệnh tim mạch và sức khỏe được ghi nhận bởi nghiên cứu hiện tại vẫn còn đang thiếu một vài “mảnh ghép” nào đó. Như được đề cập ở trên, một khả năng là lối sống lành mạnh (hay không lành mạnh) là một yếu tố quan trọng quyết định hệ quả thực sự của các hình thức rút ngắn khung giờ ăn. Rất có thể những người có khung giờ ăn nhỏ hơn 8 tiếng không chủ động áp dụng “nhịn ăn gián đoạn” như mọi người thường làm, mà thay vào đó là hệ quả của việc họ làm việc tăng ca, làm ca đêm hay gặp những vấn đề về sức khỏe tâm lý như căng thẳng kéo dài, trầm cảm.
TÓM LẠI…NGHĨ THẾ NÀO CHO PHÙ HỢP?
Tóm lại, mình nghĩ đây là một ví dụ cho hiện tượng các kênh truyền thông và cộng đồng mạng xã hội nhanh chóng nắm bắt và lan truyền những thông tin mang tính gây chấn động, bất kể liệu chúng có thực sự chắc chắn hay đáng tin cậy không. Ở thời điểm hiện tại, dường như việc thu hút phản ứng trở nên được ưu tiên hơn so với việc truyền tải thông tin một cách đầy đủ và thấu đáo.
Khả năng cao là kết quả của nghiên cứu trên, nếu và khi nó được xuất bản chính thức, không đem lại cho chúng ta nhiều hiểu biết mới (nếu có). Trong tình huống tích cực nhất (hi vọng), nghiên cứu trên (khi nó được xuất bản chính thức) sẽ cho chúng ta biết thêm điều gì có thể dẫn đến (hay có liên quan) những ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe khi giới hạn khung giờ ăn. Một điều chắc chắn là, nghiên cứu trên sẽ không làm thay đổi quan điểm của những người đã áp dụng “giới hạn khung giờ ăn” và thu được kết quả tốt từ chúng, cũng như không khiến một bộ phần “cuồng tin”, sùng bái phương pháp này trở nên dè chừng hơn (trái lại, rất có thể họ sẽ lập tức cho rằng nghiên cứu trên là một mớ giấy lộn và khoa học là nhảm l**).
Nói một cách công bằng, “giới hạn khung giờ ăn” là một biện pháp khả thi và có hiệu quả cho mục tiêu cải thiện thể trạng và sức khỏe. Tuy nhiên, hiệu quả của chúng không thể tách rời với những yếu tố quan trọng hơn tạo nên một lối sống lành mạnh - liên quan đến dinh dưỡng, đó là lượng Calo tiêu thụ hàng ngày và chất lượng của chế độ ăn. Hiệu quả của phương án này không có gì thần thánh như thường được truyền miệng. Và giống như mọi phương án cải thiện sức khỏe và thể chất khác, cách bạn áp dụng nó quyết định liệu rốt cục nó có lợi hay có hại.
Các bạn nên tìm xem phân tích của Gil Calvarho (Nutrition Made Simple) trên Youtube.
Chủ đề “chọn giờ ăn bữa lớn” đã được thảo luận trong hai bài viết tại Tập San Tháng 01/2023.
Một ví dụ tương tự đã được thảo luận trong một bài viết trước liên quan đến hiệu quả của Magie (Mg) đối với cải thiện giấc ngủ, theo đó sự bất tương đồng giữa các nghiên cứu quan sát (ủng hộ vai trò của Mg) và các nghiên cứu có kiểm soát (không ủng hộ hiệu quả của bổ sung Mg) dường như gợi ý ảnh hưởng rộng hơn của chất lượng chế độ ăn.